Khuyến Nghị Sử Dụng Máy Đo Ethernet – EXFO ETS-1000 / ETS-1000L

Máy Đo Ethernet – EXFO ETS-1000 / ETS-1000L là thiết bị chủ yếu được dùng để đo kiểm tra chất lượng đường truyền Ethernet nhằm đảm bảo đường truyền sẵn sàng trước khi đưa vào sử dụng. Với mục đích như vậy, các bài đo thường sử dụng bao gồm:

  • Đo & phân tích theo RFC2544

Bài đo RFC 2544 sử dụng để đo kiểm mạng Ethernet với các kích thước khung được mặc định là 64, 128, 256, 512, 1024, 1280 và 1518 byte. Đây là phương pháp chuẩn để đánh giá, phân tích đặc tính mạng Ethernet. Máy đo ETS – 1000 hỗ trợ 4 phép đo chuẩn được định nghĩa bởi phương pháp RFC – 2544

  • Throughput – Băng thông:

Phép đo này cho phép xác định tốc độ lớn nhất có thể đối với các thiết bị mạng Ethernet mà không xảy ra lỗi.

Nguyên lý đo: Thiết bị sẽ phát đi một số khung nhất định ở tốc độ lớn nhất có thể, so sánh với số khung thu được. Khi hiện tượng mất khung xảy ra, thiết bị sẽ giảm tốc độ xuống còn một nửa so với tốc độ vừa thực hiện và thực hiện lại bài đo. Nếu không có hiện tượng mất khung, thiết bị sẽ tăng tốc độ phát lên ½ giá trị đã giảm đi ban đầu và thực hiện lại bài đo. Cứ như vậy cho đến khi đạt được giá trị lớn nhất và không có khung nào bị mất.

 

 

  • Latency - Độ trễ:

Phép đo này cho phép phân tích thời gian đạt được cho một khung được phát từ nguồn tới đích và sau đó quay lại nguồn (Round-trip delay). Độ trễ (Latency) là một thông số quan trọng cho các ứng dụng thời gian thực chạy trên các mạng Ethernet như video, VoIP.

Bài đo này sẽ đo và kiểm soaát tốc độ phát tại mỗi kích thước khung nhất định sao cho không có hiện tượng mất gói xảy ra. Sau đó, thiết bị sẽ tạo luồng lưu lượng trong 120 giây. Trong thời điểm phát, mỗi khung sẽ được gắn 1 nhãn thời gian nhất định và khi nhận được gói tin trả về từ thiết bị loopback đầu xa, thiết bị đo sẽ tính toán ra thời gian trễ truyền gói tin.

Bài đo chuẩn được thực hiện khoảng 20 lần và lấy giá trị trung bình, mỗi lần thực hiện trong 120 giây.

 

 

  • Frame Loss - Tỉ lệ mất khung:

Bài đo này đo lường khả năng đáp ứng của mạng trong điều kiện bị quá tải (overload). Mục tiêu là kiểm thử khả năng đáp ứng với các ứng dụng thời gian thực bởi vì tỉ lệ mất khung cao sẽ làm suy giảm chất lượng dịch vụ.

Thiết bị đo sẽ phát lưu lượng tại tốc độ cao nhất và đo lường tỉ lệ mất gói. Khi hiện tượng mất gói xảy ra, tốc độ phát được giảm đi 10% và lặp lại bài đo (có thể điều chỉnh tỉ lệ giảm này để có kết quả mịn hơn) cho tới khi không có gói tin nào bị mất.

Bài đo được thực hiện với tất cả các kích cỡ khung đã thiết lập .

 

 

  • Back-to-back:

Phép đo kiểm này cho phép ước tính thời gian trong khi DUT (thiết bị được đo kiểm) có khả năng quản lý tải lớn nhất

Máy đo gửi một “burt” của các khung với khoảng cách giữa các khung là nhỏ nhất tới DUT và sau đó đếm số các khung quay ngược lại bởi DUT. Nếu đếm số khung được phát là ngang bằng với số khung quay lại thì thời gian truyền dẫn sẽ tăng lên và phép đo được thực hiện lại đến khi có 2 thử nghiệm thành công mà không bị mất khung nào.

Khuyến nghị thực hiện lặp lại ít nhất 50 lần để lấy giá trị trung bình

 

 

  • Đo BERT

Phép đo BERT cho phép đo tốc độ lỗi bit là tỉ lệ của các bit lỗi trên tổng số các bit đã phát. Để thực hiện đo kiểm thì một mẫu bit nhị phân xác định (Được biết cả ở đầu thu và đầu phát) được mã hoá vào trong khung Ethernet mà sẽ được phát đi

Tại phía đầu thu thì các mẫu đã gửi được so sánh với các mẫu ở phía phát và sau đó tốc độ lỗi bit được đếm.

Việc đo kiểm có thể được thực hiện lại 4 lớp của mô hình OSI

  • Tại lớp vật lý (lớp 1) :

Dữ liệu đo kiểm được gửi từng phần một với khe hở giữa các khung được xác định (IFG). Trong trường hợp này phép đo được thực hiện từ cổng A(B) đến cổng B(A) hoặc sử dụng chức năng Loopback

 

 

  • Tại lớp dữ liệu (lớp 2)

Tất cả dữ liệu được mã hoá vào khung Ethernet do đó cho phép phát các gói đo xuyên qua mạng với thiết bị lớp 2 của mô hình OSI (Các switch mạng)

 

 

  • Tại lớp mạng (lớp 3)

Tất cả dữ liệu được mã hoá vào trong gói IP và sau đó vào trong khung Ethernet do đó cho phép truyền các gói đo kiểm xuyên qua mạng với thiết bị của cả lớp 2 và lớp 3 của mô hình OSI (Switch, Router)

 

 

  • Tại lớp truyền dẫn (lớp 4)

Dữ liệu đo kiểm được mã hoá vào trong một UDP header sau đó vào trong IP header và khung Ethernet do đó cho phép phát mẫu đo kiểm sử dụng các giao thức truyền dẫn.

 

 



Tin khác